Trạng Sư Đường: Một Số Kiến Thức Liên Quan Đến Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
“Việc đặt bút sáng tác được xác định là thời điểm phát sinh quyền tác giả.”
1. Bạn hiểu như thế nào về nhận định trên? Và bạn đã thật sự hiểu hết về quyền tác giả?
Như chúng ta đã biết, việc xác định thời điểm phát sinh quyền tác giả được quy định tại Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Theo đó, quyền tác giả được xác định phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, mà không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Dưới góc nhìn khoa học pháp lý, quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học tại Việt Nam nói chung, của một tác phẩm viết nói riêng, được xác định dựa trên 03 điểm sau:
Một là, Tác phẩm được sáng tác hợp pháp. Tức do chính tác giả, các đồng tác giả sáng tạo, không sao chép, không trích dẫn trái quy định pháp luật.
Hai là, Tác giả đương nhiên được hưởng đầy đủ quyền, nghĩa vụ đối với tác phẩm do mình sáng tác, bất kể có đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền tác giả hay không.
Ba là, Quyền tác giả chỉ được pháp luật bảo hộ khi tác phẩm được xác định đã tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định.
Dưới góc nhìn thực tiễn, để khẳng định quyền tác giả của một người đối với một tác phẩm, việc tác giả thực hiện các công việc như đặt tên cho tác phẩm, sử dụng bút danh trong quá trình sáng tác, công bố tác phẩm… cũng là một cơ sở quan trọng. Điều này giúp tác giả hạn chế những tranh chấp phát sinh không đáng có liên quan đến các tác phẩm này.
Điển hình về việc đặt tên tác phẩm, chủ đề của tác phẩm như thế nào, thông điệp truyền tải của nó ra sao, tất cả đều được tác giả quyết định, góp phần ghi nhận dấu ấn riêng của mình, không bị nhầm lẫn với tác phẩm của tác giả khác.
Hay về việc công bố tác phẩm, tác giả hoàn toàn có quyền được quyết định thực hiện hay không việc thuyết trình, trình bày, xuất bản, trình diễn một tác phẩm đọc được trước công chúng… Những tác phẩm được công bố này được phát hành bởi ý chí, hay được hiểu là sự đồng ý, cho phép của chính tác giả, miễn là không vi phạm vào điều cấm của pháp luật. Nói cách khác, bất kể tác giả có công bố tác phẩm hay không, công bố khi nào, công bố ở đâu, bằng hình thức nào… đây vẫn là một khía cạnh thực tiễn sinh động để chứng minh quyền tác giả.
2. Vậy quyền tác giả là gì?
Căn cứ Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân (thường được xem là quyền tinh thần) và quyền tài sản (thường được xem là quyền kinh tế).
Quyền nhân thân gồm những gì?
1. Đặt tên cho tác phẩm.
Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản liên quan đến việc làm tác phẩm phái sinh.
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản gồm những gì?
1. Làm tác phẩm phái sinh;
2. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm.
3. Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
4. Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
5. Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn.
6. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.
(Trường hợp tác phẩm được xác định là tác phẩm viết, các quyền tài sản cụ thể sẽ được xác định tương ứng, dựa trên các quy định của pháp luật).
Ai là đối tượng được bảo hộ các quyền trên?
Đó là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, hay còn gọi là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Đa phần, tác giả sẽ vừa là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, vừa là chủ sở hữu quyền tác giả. Nhưng nếu tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả không cùng là một cá nhân, tổ chức thì sao? Liệu khi đó hai đối tượng này được hưởng các quyền giống hệt nhau?
Câu trả lời là hoàn toàn không! Hai chủ thể này sẽ được hưởng các quyền về sở hữu trí tuệ riêng biệt, cụ thể khi đối chiếu với nội dung đã liệt kê ở trên là:
– Tác giả được hưởng các quyền nhân thân tại mục 1, 2 và 4. Các quyền nhân thân này cũng được pháp luật quy định tác giả không được chuyển nhượng.
– Chủ sở hữu quyền tác giải được hưởng quyền nhân thân tại mục 3 và toàn bộ quyền tài sản.
Khi đó, nếu tác giả và tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật để sáng tác có thể cùng thỏa thuận về việc sửa chữa tác phẩm.
Quá trình khai thác và phát triển tác phẩm không thể không kể đến việc hình thành tác phẩm phái sinh. Tác phẩm phái sinh được bảo hộ thế nào?
Theo quy định pháp luật, tác phẩm phái sinh được xác định là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác.
Để một tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả thì tác phẩm đó phải không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, hay không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc.
3. Tác giả muốn được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình trọn đời, có được không?
Điều này còn phụ thuộc vào tác phẩm của bạn thuộc loại hình nào!
– Quyền nhân thân của tác giả được bảo hộ vô thời hạn, trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho người phép người khác công bố tác phẩm.
– Quyền nhân thân còn lại (quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm) và quyền tài sản được xác định thời hạn bảo hộ như sau:
+ Trừ một số trường hợp đặc biệt đối với các phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết.
+ Trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
+ Tác phẩm khuyết danh cũng được xác định theo thời hạn này kể từ khi các thông tin về tác giả xuất hiện.