Giải B – Ngũ cung – Mưa Tháng Chín
Tác phẩm: Ngũ cung
Tác giả: Mưa Tháng Chín
Bảng điểm:
1) Chủ đề, đề tài:
GK Cà Phê: 1
GK Kim Thuỵ:1
2) Nghệ thuật xây dựng:
a) Bối cảnh:
GK Cà Phê: 1
GK Kim Thuỵ: 1
b) Cốt truyện:
GK Cà Phê: 1
GK Kim Thuỵ: 2
c) Nhân vật:
GK Cà Phê: 2
GK Kim Thuỵ: 1
d) Phong cách ngôn ngữ văn chương:
GK Cà Phê: 2
GK Kim Thuỵ: 2
3) Điểm thưởng của giám khảo:
GK Cà Phê: 0
GK Kim Thuỵ: 0
4) Tổng điểm (điểm trung bình của hai GK): 7
5) Nhận xét:
Về tổng thể, truyện “Ngũ Cung” được viết như một tổ khúc ba hồi dành cho Guitar điện và đàn nhị. Cảnh mở đầu với những: rừng ồn, tiếng ve kêu “ve… ve… ve…” inh ỏi, tiếng lạch cạch của chiếc xe Dream cũ, tiếng gió lùa qua khe hở nghe vù vù… Hồi đầu mới đọc, tôi có cảm giác như mình đang xem một bộ phim điện ảnh với màn mở đầu bằng cắt cảnh liên tục, khiến cho độc giả/người xem nhanh chóng hình dung được bối cảnh, nhanh chóng hòa mình vào câu chuyện.
Phần “thân bài” với đầy ắp những tiếng lòng nức nở, những trăn trở của thầy Kỳ, của Thành, của người cha, của nhân vật quần chúng… Duyên cớ là cuộc thi năng khiếu trường, để từ đó vang lên những lời xì xào, bàn tán, chê cười; âm thanh ồn ã của các phần thi nhảy hiện đại, ca múa, ảo thuật với tiếng ò í e của đàn nhị bản “Bèo dạt mây trôi”. Sau đó là những hờn tủi, những khuyên răn và đỉnh điểm là tiếng đàn bản “Đua ngựa” của thầy Kỳ. Phần giữa của tổ khúc ba hồi này diễn ra khi thì nhẹ nhàng, lúc lại lắng đọng, có một cái gì đó rất bồi hồi, xúc động.
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”. (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Phần kết thúc nhẹ nhàng, khép lại những ồn ào của phần mở, với những: chiều tà dần buông, tiếng ve mệt mỏi đã thôi inh ỏi, tiếng xe Dream ngừng nổ máy trả lại sự yên bình cho núi rừng, tiếng đàn nhị ngân lên khe khẽ cùng tiếng hát không lời… Phần kết này có thể ví như câu “xuống xề” đầy ngọt ngào, lắng đọng của người nghệ sĩ tài hoa. Lời hết ý dứt nhưng dư ba vẫn còn trong lòng người đọc.
Tác giả có phong cách ngôn ngữ văn chương khá bình dị, nhẹ nhàng. Đôi chỗ còn “đọc” ra được “hơi” văn của Ngọc Thứ Lang. Văn chương giản dị, thuần phác, không bị ảnh hưởng bởi văn trên mạng Internet là một điểm sáng.
Nếu có một điều gì phải góp ý thì đó chính là tác giả cần phải tinh tế hơn xíu nữa trong biểu đạt văn chương. Ý đồ thông qua việc giữ tiếng đàn nhị để bảo tồn văn hóa dân tộc hơi lộ liễu quá, nên “gói” lại một cách khéo léo bằng phương pháp ẩn ý ngôn từ sẽ hay hơn. Văn chương mà nói ra rõ ràng quá thì cũng mất đi cái hay. Văn chương cần giống như hoa bưởi vậy: hương bưởi thơm cho lòng ai bối rối, nhờ hương thơm nói hộ tình yêu, hai người chia tay sao chẳng nói điều chi… Cái sự ngập ngừng, e ấp, điều chưa nói rõ ràng ấy chính là nét đẹp của văn chương, nghệ thuật vậy!