Phương thức tuyển dụng quan lại thời Trần.
Bài báo “Phương thức tuyển dụng quan lại thời Trần”
Tác giả: TS. Nguyễn Thị Phương Chi.
Đăng tại Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7.2006, trang 19-26.
Phương thức tuyển dụng quan lại thời Trần khá phong phú. Quan lại được tuyển dụng bằng nhiều hình thức và điều cốt yếu là tuyển chọn người thực tài tham gia vào bộ máy nhà nước. “Triều Trần dùng người thật là công bằng. Tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí thường được trổ tài của mình, không đến nỗi bị bó buộc hạn chế vì tư cách, như khoảng đời Long Hưng (1293) Đại Khánh (1314) nhân tài có rất nhiều, mặc áo triều, ở ngôi trọng, học sinh với khoa giáp ngang nhau, lịch duyệt trên đường làm quan chưa từng khác nhau (làm quan ở triều bấy giờ duy có Đĩnh Chi, Trung Ngạn là người khoa giáp, còn bọn Hán Siêu, Sư Mạnh, Lê Quát, Phạm Mại đều do học sinh xuất thân), chỉ cần người dùng được, chứ không câu nệ ở đường xuất thân. Nhân tài và văn học được thịnh, cũng vì thế chăng”Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, NXB. KHXH, Hà Nội, 1992, tr. 539..
1. TUYỂN CHỌN NHỮNG QUÝ TỘC ĐỒNG TỘC
Nhà nước Trần vừa là nhà nước quân chủ quý tộc đồng tộc vừa là nhà nước quân chủ quan liêu. Khi mới thiết lập vương triều, nhà Trần sử dụng đội ngũ quý tộc đồng tộc vào bộ máy của triều đình trung ương. Tầng lớp quý tộc tôn thất, được triều đình trọng dụng và đãi ngộ ưu hậu. Họ được giữ những chức vụ cao trong triều như các chức Tam thái, Tam thiếu, Tam tư, đứng đầu hai ban văn võ. “Chức tể tướng thì chọn trong tôn thất người nào tài giỏi, có đạo đức nghệ thuật, thông hiểu thi thư thì cho làm”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr.21.. Chức Phiêu kỵ tướng quân thì chỉ có hoàng tử mới được đảm nhận. Vai trò của tôn thất là rất quan trọng, họ là chỗ dựa chính yếu của vương triều. Những đại thần trong chính phủ phần lớn là người tôn thất. Sử chép: “Tháng 2 năm Bính Thân (1236), định quan hàm các đại thần; phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là thái sư, thái phó, thái bảo, thái uý, hoặc là tư đồ tả hữu tướng quốc, đều kiêm hàm kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng tam ty bình chương sự”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr14.. Nghi đồng tam ty nghĩa là nghi thức của tam ty hay tam công. Bình chương sự chỉ chức tể tướng và đồng bình chương sự nghĩa là ngang với chức tể tướng. Các đại thần tôn thất đều được lãnh những chức vụ cao trong triều. Và, xét trong chính sử ta thấy, những tôn thất được triều đình sử dụng vào việc nước đều tài giỏi. Những chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước đều do tôn thất đảm nhiệm. Như Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Triều, Trần Khánh Dư… hoặc người được ban quốc tính như Trần Khát Chân vv. Họ là những người văn võ song toàn, không chỉ nổi tiếng đương thì mà đến nay tên tuổi của họ là niềm tự hào của biết bao thế hệ con cháu, nhưng tiếc thay không có tư liệu nào cho biết cách thức nhà Trần tuyển chọn họ như thế nào. Sử cũ chỉ chép rằng con em các văn quan và tụng quan được vào học ở Quốc Tử viện và có viên quan với chức Thượng tri thư trông coi “Mùa Đông, tháng 10 năm Bính Thân (1236), cho Phạm Ứng Thần làm Thượng tri thư Quốc Tử viện, trông nom cho con em các văn quan và tụng quan vào học”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr14.. Đến năm 1272, nhà vua mới xuống chiếu “tìm người hiền lương thông hiểu kinh sách làm tư nghiệp Quốc Tử giám, người biết giảng dạy tứ thư ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr42.. Năm 1274 “chọn người Nho học trong nước người nào cho đức hạnh sung vào hầu Đông cung. Lấy Lê Phụ Trần làm thiếu sư, kiêm chức sừ cung (cung thái tử) giáo thụ”. Nhưng tư liệu này chỉ cho chúng ta biết việc học tập của nhà vua và thái tử mà thôi. Nhà vua còn trực tiếp viết thơ để dạy hoàng tử. Còn các vương hầu tôn thất không phải đội ngũ được tuyển chọn qua thi cử Nho học nhưng sự tài giỏi của họ trong quá trình xây dựng đất nước đã đưa triều Trần đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hoá và xã hội. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm, chắc hẳn phải nghiên cứu kinh Phật đến độ “thiên kinh vạn quyển”. Trần Thủ Độ được các sử thần nhà Lê nhận xét: Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. “Khi làm tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà giúp nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cho đến chết. Thái Tôn có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ quý mến khác người”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr52.. Trần Hưng Đạo được Ngô Thì Sĩ hết lời ca ngợi: “Tài văn võ đủ làm phép cho muôn nước, mà không dám cậy tài năng; Anh hùng nổi tiếng hai nước mà không dám nhận công nghiệp. Thế lực có thể lật sông núi, đuổi sấm sét, mà lúc nào cũng coi uy nhân vua ở trước mặt. Nay xem ra theo nghĩa phải mà không theo lời cha. Biết có nước mà không biết đến nhà, bẻ mũi gậy để đi theo hầu vua, giơ gươm mà kể tội con. Lòng trung thành sáng như mặt trời”Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, quyển 3, Bản đánh máy của Viện Sử học.. Phan Huy Chú nhận xét về Trần Quang Khải: “Công lao thu phục được nước, ông đứng thứ nhất… Ông nghe rộng biết nhiều, hiểu các tiếng người nước Phiên. Mỗi khi sứ sang ta, ông được chọn vào thù tiếp. Ông rất chăm học hay làm thơ”Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr223.. Trần Khánh Dư được vua Trần Nhân Tôn khen là người vừa tài trí lại mưu lược và lập làm thiên tử nghĩa nam (con nuôi của thiên tử) và được phong chức Phiêu Kỵ Thượng tướng quân, một chức chỉ dành riêng cho hoàng tử. Sử chép: “Khi quân Nguyên sang cướp, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư nhân chỗ sơ hở đánh úp. Thượng hoàng khen là có trí lược, lập làm thiên tử nghĩa nam. Sau khi khi đánh người Man ở núi thắng trận to, phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ tướng quân không phải là hoàng tử thì không được phong, vì Khánh Dư là thiên tử nghĩa nam cho nên mới có mệnh ấy. Rồi từ tước hầu tăng lên mãi đến tử phục thượng vị hầu”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr52.. Và, cố nhiên còn khá nhiều tư liệu khác khen ngợi sự tài giỏi của các tôn thất nhà Trần, nhưng trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin được chứng minh phần nào. Tuy nhiên không phải cứ là tôn thất thì đều được trọng dụng. Nếu là tôn thất mà không có tài thì triều đình cũng không giao chức vụ. Cung Túc vương Dục, con trưởng của vua cũng không được chọn để kế tục ngai vàng vì “là người phóng đãng quá”, không đủ tư cách và uy tín. Bảo Hưng vương là người tôn thất được vua Trần Anh Tông rất yêu quý, nhưng không được vua uỷ cho làm việc chính sử “vì là không có tài làm được”Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr100..
Chú thích
Vui lòng đăng nhập để bình luận.
Tư liệu viết truyện: Tuyển dụng quan lại cho triều đình phong kiến Việt Nam
Thể loại: Tư Liệu Viết
Bình Luận