Quân đội thời Đinh.

Lực lượng vũ trang của Đinh Bộ Lĩnh và sau đó của nhà nước phong kiến triều đại Đinh (968-980).

Hình thành khoảng năm 944 tại Hoa Lư (Hoàng Long – Ninh Bình ngày nay), do Đinh Bộ Lĩnh đứng đầu.

Lực lượng phát triển nhanh (đến năm 951 đã đánh bại cuộc hành quân đánh dẹp suốt một tháng của triều đình Ngô do Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập chỉ huy), đặc biệt sau khi liên kết với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình ngày nay), với lực lượng mới này, trong 2 năm (966 – 967) Đinh Bộ Lĩnh đã lần lượt liên kết và thuần phục được lực lượng vũ trang của các sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), Ngô Xương Xí ở Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hoá), Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu (Kim Động, Hải Dương); đánh dẹp lực lượng của các sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Tây), Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội), Kiều Công Hãn ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)… chấm dứt nạn Cát Cứ 12 sứ quân, thống nhất đất nước (968) mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam.

Lực lượng vũ trang (quân đội) đã được Đinh Bộ Lĩnh tổ chức lại một cách thống nhất thành lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến tập quyền Đại Cồ Việt.

Dưới Triều Đinh, quân đội được tổ chức thành 10 đạo tương ứng với 10 đạo hành chính trên toàn quốc (mỗi đạo hành chính có một đạo của quân đội). Với nguyên tắc biên chế tổ chức cơ bản như sau:
Mỗi đạo gồm mười quân,
mỗi quân gồm 10 lữ,
mỗi lữ gồm 10 tốt,
mỗi tốt thành 10 ngũ,
mỗi ngũ gồm 10 người.

Bình Luận

Đang tải bình luận...
Chưa có bình luận